Hội Doanh nhân trẻ Thành phố Cần Thơ? Lịch sử hình thành và nhiệm vụ

2022-05-12 03:00:07   Bản in   Email   Lượt xem: 41

Sự ra đời của hội doanh nhân trẻ Thành phố Cần Thơ khẳng định vai trò của đội ngũ doanh nhân trẻ trong quá trình hội nhập quốc tế và nỗ lực vượt qua khó khăn do khủng hoảng tài chính toàn cầu, phát triển đội ngũ doanh nhân trẻ đáp ứng nhu cầu phát triển và tạo điều kiện kinh doanh thuận lợi tại Việt Nam.


Sự ra đời của hội doanh nhân trẻ Thành phố Cần Thơ khẳng định vai trò của đội ngũ doanh nhân trẻ trong quá trình hội nhập quốc tế và nỗ lực vượt qua khó khăn do khủng hoảng tài chính toàn cầu, phát triển đội ngũ doanh nhân trẻ đáp ứng nhu cầu phát triển và tạo điều kiện kinh doanh thuận lợi tại Việt Nam. Để tìm hiểu rõ hơn về Hội doanh nhân trẻ thành phố Cần Thơ là gì và có nhiệm vụ gì? Bài viết dưới đây sẽ cung cấp cho bạn đọc nội dung liên quan đến: ” Hội Doanh nhân trẻ Thành phố Cần Thơ? Lịch sử hình thành và nhiệm vụ”

 


1. Hội Doanh nhân trẻ thành phố Cần Thơ là gì?
– Hội Doanh nhân trẻ thành phố Cần Thơ( Young Business People Association of Can Tho – YBA – CT) được hiểu là một tổ chức nghề nghiệp do doanh nhân trẻ trên địa bàn thành phố Cần Thơ thành lập. Hội doanh nhân trẻ thành phố Cần Thơ là thành viên tập thể của Hội Liên Hiệp Thanh Niên Việt Nam Thành phố Cần Thơ.

– Khoảng 726 đại biểu là doanh nhân trẻ Việt Nam trong và ngoài nước sẽ tham gia Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ ba của Hội Doanh nghiệp trẻ Việt Nam diễn ra tại Hà Nội từ ngày 13 đến 14/12.

Phạm Tấn Công, Phó Chủ tịch Hiệp hội đưa ra thông báo trên tại buổi họp báo diễn ra tại Hà Nội ngày 9/12. Trong sự kiện vào ngày 13/12 sẽ diễn ra lễ trao Giải thưởng Sao Vàng đất Việt 2008 để vinh danh 7 trong số 27 thí sinh xuất sắc được lựa chọn từ 15 tỉnh, thành phố trên toàn quốc.

Nhân dịp này, một diễn đàn đối thoại với Chính phủ cũng sẽ được tổ chức với sự tham dự của Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Sinh Hùng và lãnh đạo các bộ, ngành liên quan.

– Báo cáo này cung cấp một cái nhìn tổng thể về thực trạng của các hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam. Đây là cơ sở để MPDF và Quỹ Châu Á lập kế hoạch và thiết kế các dự án hợp tác với các hiệp hội doanh nghiệp. Báo cáo được xuất bản dưới dạng tài liệu thảo luận chung của MPDF / Quỹ Châu Á và sẵn có cho công chúng. Báo cáo được hưởng lợi từ sự đóng góp của nhiều cá nhân.  Bản thảo hoàn chỉnh hoặc một phần của báo cáo đã được Mario Fischel và John Mckenzie của MPDF xem xét; Barnett F. Baron và Franck S. Wiebe của Quỹ Châu Á; Myles McGregor- Lowndes của Đại học Công nghệ Queensland; Bà Phạm Chi Lan thuộc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam; Pham Nguyen Toan of LEADCO; Mark Sidel của Đại học Luật Iowa; Milton Lawson của Freshfields; và các nhà tư vấn độc lập Edmund J. Malesky và Stanford Smith. Nhận xét do những cá nhân này cung cấp rất hữu ích trong việc sửa đổi cần thiết.

 

2. Lịch sử hình thành và nhiệm vụ 
– Các hiệp hội doanh nghiệp có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của khu vực tư nhân mạnh mẽ bằng cách đại diện cho lợi ích kinh doanh và hỗ trợ cụ thể cho các thành viên của họ. Mặc dù có khoảng 200 hiệp hội doanh nghiệp ở Việt Nam và một số hiệp hội đang phát triển mạnh mẽ hơn, nhưng hiện tại, các hiệp hội này có phần hạn chế trong việc thực hiện nhiều chức năng mà các hiệp hội kinh doanh ở các quốc gia khác đảm nhiệm. Nhận thức được rằng các hiệp hội doanh nghiệp có thể và cần đóng một vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của khu vực tư nhân Việt Nam, Quỹ Phát triển Dự án Mekong (MPDF) và Quỹ Châu Á đã khởi xướng nghiên cứu này về vai trò của các hiệp hội doanh nghiệp trong khu vực tư nhân mới nổi.

– Nhiệm vụ:  xác định và đánh giá các đặc điểm chính của các hiệp hội doanh nghiệp ở Việt Nam, cũng như các điều kiện hoạt động của hiệp hội, và phân tích vai trò và thực trạng của các câu lạc bộ và hiệp hội doanh nghiệp trong việc hỗ trợ khu vực doanh nghiệp Việt Nam.

– Điều chỉnh và mở rộng sự tham gia của hiệp hội doanh nghiệp trong việc hoạch định chính sách kinh tế và pháp luật thông qua việc thực thi tốt hơn các quy định hiện hành, trong đó yêu cầu các bộ phải lấy ý kiến ​​của các hiệp hội doanh nghiệp trước khi ban hành các văn bản pháp luật mới liên quan đến hoạt động kinh doanh. Để đầu tư các điều khoản này với thẩm quyền pháp lý cao hơn, chúng cũng có thể được xây dựng thành luật toàn diện về hiệp hội doanh nghiệp hiện đang được xem xét. Sự tham gia chính quy cải thiện chất lượng của các luật và quy định kinh tế bằng cách cung cấp thông tin phản hồi hữu ích cho chính phủ trước khi ban hành. Trong quá trình thực hiện, nó làm giảm khả năng các doanh nhân bị sốc hoặc ngạc nhiên trước những thay đổi quy định bất ngờ ảnh hưởng đến chi phí kinh doanh. Sự tham gia cũng cải thiện việc thực hiện bằng cách tăng cường cam kết của công chúng và hiểu biết về các luật và quy định mới. Cuối cùng, điều này giúp cung cấp sự ổn định và khả năng dự đoán cho môi trường pháp lý cho kinh doanh và đầu tư.

– Cải thiện môi trường pháp lý để cho phép các hiệp hội kinh doanh được thành lập, phát triển và thực hiện các chức năng cốt lõi của họ. Môi trường pháp lý quản lý các hiệp hội doanh nghiệp ở Việt Nam phải phản ánh các điều kiện xã hội, kinh tế và chính trị của địa phương và đáp ứng các nhu cầu của địa phương. Tuy nhiên, khi chính phủ tiến hành xây dựng các quy định mới cho các hiệp hội doanh nghiệp, thì việc xem xét các tiêu chuẩn và quy chuẩn quốc tế trong lĩnh vực này cũng có thể hữu ích. Nói rộng ra, kinh nghiệm quốc tế cho thấy rằng luật pháp, quy định và hệ thống hành chính quản lý các hiệp hội nên điều chỉnh chúng một cách hợp lý và ngăn chặn việc lạm dụng, nhưng không tạo ra gánh nặng tuân thủ làm cản trở việc thành lập hiệp hội hoặc tiến hành các hoạt động hợp pháp của họ. Hướng tới mục tiêu này, các quy định nên được viết ra sao cho:

–  Việc thành lập các hiệp hội kinh doanh tương đối nhanh chóng, dễ dàng và không tốn kém. Khuôn khổ pháp lý không được đặt ra các điều kiện hạn chế (ví dụ: yêu cầu tất cả các thành viên của hiệp hội phải từ cùng một ngành hoặc địa phương) hoặc các thủ tục nặng nề (ví dụ: yêu cầu nhiều quyền và phê duyệt từ nhiều cơ quan nhà nước) sẽ cản trở việc hình thành hiệp hội.

–  Các hiệp hội kinh doanh nên được miễn thuế đối với thu nhập tạo ra từ “các hoạt động cốt lõi” (ví dụ: nhận phí thành viên, cấp giấy chứng nhận và thực hiện các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh).

–  Các cá nhân và doanh nghiệp sẽ nhận được lợi ích về thuế thu nhập, dưới hình thức khấu trừ thuế, khi đóng hội phí cho các hiệp hội doanh nghiệp.
–  Các điều khoản tối thiểu cần thiết cho hoạt động và quản trị của hiệp hội kinh doanh phải được nêu trong quy chế chính thức của hiệp hội. Trong các điều khoản này, cần có một cơ chế trách nhiệm giải trình để đảm bảo rằng hiệp hội luôn trung thành với các mục đích của mình và đáp ứng các thành viên của nó.
NS

–  Các hiệp hội doanh nghiệp có quyền đề xuất các sáng kiến ​​mới về luật và quy định liên quan đến môi trường kinh doanh.

–  Việc báo cáo cho các cơ quan giám sát phải đơn giản, đầy đủ và thống nhất giữa các cơ quan nhà nước càng tốt.

–  Cần có một cơ quan đăng ký quốc gia duy nhất cho tất cả các hiệp hội kinh doanh. Để thúc đẩy trách nhiệm giải trình và sự tin cậy, công chúng phải có quyền truy cập vào cơ quan đăng ký và các quy tắc truy cập phải được xác định rõ ràng.

– Trong hầu hết các trường hợp, các thành viên chính thức của hiệp hội doanh nghiệp là chính các doanh nghiệp, được đại diện bởi các giám đốc / tổng giám đốc hoặc một nhân viên khác do giám đốc chỉ định. Ngoài ra, một hiệp hội doanh nghiệp có thể là thành viên của một hiệp hội khác.

Ví dụ, các bài báo của VCCI xác định rõ tư cách thành viên chính thức của hiệp hội: “thành viên chính thức là hiệp hội doanh nghiệp và doanh nghiệp do công dân Việt Nam sở hữu và điều hành, và các doanh nghiệp liên doanh có ít nhất 50% vốn Việt Nam sở hữu, đã đăng ký.

– Thành viên liên kết: Một số hiệp hội mở rộng tư cách thành viên liên kết cho lãnh đạo chính quyền địa phương, bao gồm giám đốc hoặc trợ lý giám đốc các sở, ban, ngành cấp tỉnh / huyện và Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân. Các thành viên này thường không phải trả hội phí, và thường đóng vai trò là đối tác của chính phủ và cung cấp cho hiệp hội thông tin khi cần thiết và trong phạm vi có sẵn. Sự sắp xếp này có lợi cho cả hiệp hội và chính quyền địa phương vì nó cho phép các thành viên tiếp cận với nguồn thông tin đáng tin cậy về luật và chính sách có thể ảnh hưởng đến doanh nghiệp, đồng thời cung cấp cho chính quyền địa phương một phương tiện thuận tiện để theo dõi hoạt động của doanh nghiệp. trong khu vực.

– Thành viên liên kết : Các thành viên liên kết tương tự như các thành viên liên kết trong nhiều trường hợp. Ngoài ra, một số hiệp hội mở rộng tư cách thành viên liên kết cho các công ty có vốn đầu tư nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam. Các thành viên liên kết của VCA bao gồm các hợp tác xã hoặc doanh nghiệp chưa đăng ký, doanh nghiệp hộ gia đình, các hiệp hội hoặc câu lạc bộ theo ngành cụ thể, các viện nghiên cứu và / hoặc đào tạo, v.v. Tóm lại, tư cách thành viên liên kết dành cho một loạt các tổ chức.

– Thành viên danh dự : Một số doanh nghiệp mở rộng tư cách thành viên danh dự cho những cá nhân quan trọng trong cộng đồng doanh nghiệp nhưng có thể không nhất thiết phải là doanh nhân. Những người này bao gồm các quan chức chính quyền địa phương, học giả từ các trường đại học hoặc viện nghiên cứu, giám đốc các ngân hàng địa phương, v.v.

Trong một số trường hợp, hiệp hội có thể mở rộng tư cách thành viên danh dự cho những cá nhân không phù hợp với hồ sơ của thành viên chính thức vì các thành viên danh dự có đóng góp đáng kể cho hiệp hội hoặc đóng vai trò cố vấn. Ví dụ về thành viên danh dự bao gồm các doanh nhân trên 45 tuổi nhưng vẫn đang hoạt động trong các Hiệp hội hoặc câu lạc bộ Doanh nghiệp trẻ, hoặc các cá nhân không nhất thiết là doanh nhân nhưng đã hỗ trợ hoặc đóng góp cho VCCI.

Bài viết được thực hiện bởi Thạc sỹ Đinh Thùy Dung